GHI CHÉP VỀ GIA PHẢ
Cụ Thủy Tổ :
Tả
Mạc quan Gia Hưng (Hưng Hóa) đời Lê, ngày giỗ không rõ, sinh Sư Mạnh.
Cụ
Bà chính thất, mộ hợp táng ở xứ Đồng Bả, nay là khu dân cư.
Cụ Tiên Tổ : Nguyễn Sư Mạnh.
Là
tiến sỹ khoa Giáp Thìn, làm đến Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu, coi Hàn Lâm Viện, kiêm
chức Đông các Đại học sỹ Nhập thị kinh diện, là phò mã chỉ huy cầm quân, Thượng
Thư Bộ Lễ tước sung tín hầu, được ban Quốc tính nhà Lê. Tướng công họ Lê tên
hiệu Lan Hiếu Tiên sinh, còn gọi là Lan Hinh.
Họ
Nguyễn tên húy là Sư Mạnh. Cha cụ là người huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hoa (nay
là tỉnh Thanh Hóa). Quê Cụ là một xã phong tục còn chưa được văn minh, dân làm
nghề nuôi vịt, tổ tiên là ai truyền lại không rõ. Cha Cụ (tức Thủy Tổ phát sinh
họ ta ) lên nhậm chức Tả Mạc quan xứ Gia Hưng (nay là Hưng Hóa – Phú Thọ), lấy
vợ người thôn An Bang, xã Cổ Cấm (Nay là Cổ Đô) và cư trúc ở đó. Mẹ Cụ đêm nằm
mộng gặp thần nhân đến báo rằng “ Hãy quét dọn sân cổng mà đón Mạnh Tử đến”.
Tỉnh dậy, Bà quét dọn sân cổng mà chẳng thấy ai đến cả. Đêm ấy Bà thụ thai. Đến
ngày, đến tháng, đến năm Mậu Dần (1458) sinh ra cụ, nên gọi là Sư Mạnh. Năm 27
tuổi thi đỗ khoa Giáp Thìn đời Hồng Đức (1484), thi Hội trúng tứ trường, thi
Đình đậu đồng tiến sỹ ( Đệ Tam Giáp, Đệ nhị Danh), làm quan đến chức Thượng Thư
Bộ Lễ. Năm canh Thân (1500), phụng mệnh sang sứ nhà Minh, khi vào bệ kiến, Cụ
ngồi, áo để hở bụng. Hoàng Đế nhà Minh quở trách sứ than nước Việt vô lễ. Cụ
đáp “ đường xá xa xôi, lại gặp mưa, nhiều ngày âm u, ẩm ướt, nay may được ngồi
bên “Mặt Trời” (ý chỉ Hoàng Đế nhà Minh) nên
thần cố ý phơi chữ. Hoàng Đế nhà Minh phán: “ Sứ nước Nam khoe chữ, nay Trẫm
mất bộ sách Luận Ngữ, truyền cho Khanh viết lại một bản để khỏi phải tìm kiếm”.
Cụ liền viết ngay không sót một chữ. Duy có chữ “Vi chính” đến câu “Vi chính dĩ
đức, thí như Bắc thần cư kỳ sơ nhi chúng tinh cộng chi. Cụ viết chữ thành. Hoàng Đế hỏi :’Sao Khanh lại viết
thế ?” Cụ tâu người nước Nam chúng tôi vốn cũng học là chữ ,
nhưng bản khắc in chính của thượng Quốc ban cho lại khắc chữ , nên không dám trái ”. Hoàng Đế bèn giữ
Cụ lại và sai tìm bản chính, rà lại thì quả có khắc sai như vậy. Hoàng Đế rất
thấy làm lạ nên chon ngày phong Cụ là : Thượng Thư Bắc Quốc (Trung Quốc) cho
nên gọi Cụ là : “ Thượng thư hai nước”. Khi về nước Cụ tâu lại sự thể, Vua nước
ta truyền cho Cụ làm bài phú “ Thái Bình”, Cụ liền đọc ngay :
“ Nhật Nguyệt quang thiên đạo
Sơn hà tráng đế cư
Thái Bình Vô dĩ đáp
Nguyệt thướng vạn thiên thu”
Lược dịch
“Đạo trời sang như mặt trăng, mặt trời
Hoàng Thượng trị vì giữa non sông hùng
vĩ
Thái Bình là dĩ nhiên
Xin chúc vĩnh viên được thế”
Lại
do có quân công, Cụ được phong tước Sùng
Tín hầu, được ban Quốc tính nhà Lê, vua gả công chúa cho. Tên Tự Cụ là Lan Hinh. Khi Cụ về chí sĩ nhà cửa
xuềnh soàng ( không có tường) tài sản không có gì, ăn mặc giản dị (áo sám nhạt
mầu nước trà). Vua lấy đó làm nghi ngờ, bí mật sai thị vệ giả làm lái buôn đến
hỏi mua lụa, chỉ thấy nhà Cụ có một tấm lụa và 5 quan tiền. Thị vệ về tâu, Vua
bèn cho Cụ một lọ vàng.
Cụ
thọ hơn 70 tuổi (Sách Bản quốc Đăng khoa lục nói cụ thọ 82 tuổi), mất ngày 16
tháng 9 âm lịch, Mộ tang ở xứ Đồng Tranh, Xuân tế vào ngày 16 tháng giêng.
Cụ
Bà (Vợ Cả) Công chúa nhà Lê, tên thụy là Ngọc Hân phu nhân, Giỗ ngày 8 tháng 11
âm lịch
Vợ
thứ hai : Người họ Trần tên hiệu là Hứa phu nhân
Cụ
sinh 3 người con trai :
Con cả : Lê Khâm
Con thứ 2 : Lê Phu
Con thứ 3 : Lê Thiết
Lê
Khâm là bản Tổ chi trưởng
Lê
Phu là bản tổ chi thứ
Lê
Thiết : Chi này ở xã Lỗ Trì, huyện Phù Ninh, Phú Thọ.
THƠ
CA NGỢI NGUYỄN SƯ MẠNH
Của
Cụ Nguyễn Công Hoan ( Bố Tiến sỹ Nguyễn Bá Lân) Tri
huyện vĩnh tường
Tiến
chính Thanh Hoa Cẩm Thủy nhân
Cổ
Đô hà hạnh tái tiến quân
Nhị
tuần linh thất văn hàng bảng
Lục
Bộ cư tam quốc đại quân
Luận
ngữ nhất thiên, tâm ấn quyển
Thái
bình tứ cú, khẩu thành văn.
Lược
dịch :
Cụ
chính người Cẩm Thủy, Thanh Hóa
May
sao Cổ Đô được là đất sinh ra người
Hai
bẩy tuổi, tên nêu trên bảng vàng
Nước
có sáu Bộ thì Thương thư ba bộ
Sách
luận ngữ như in trong lòng
Ứng
khẩu đọc ngay bốn câu thơ Thái bình.